Search

Phần 2 tiếp bài hôm qua ạ!

𝐓𝐀̂𝐌 𝐓𝐑𝐀̣𝐍𝐆 ...

  • Share this:

Phần 2 tiếp bài hôm qua ạ!

𝐓𝐀̂𝐌 𝐓𝐑𝐀̣𝐍𝐆 𝐂𝐔̉𝐀 𝐍𝐇𝐀̂𝐍 𝐕𝐀̣̂𝐓 𝐓𝐇𝐈̣ 𝐊𝐇𝐈 𝐂𝐇𝐈́𝐍𝐇 𝐓𝐇𝐔̛́𝐂 𝐕𝐄̂̀ 𝐋𝐀̀𝐌 𝐕𝐎̛̣ 𝐓𝐑𝐀̀𝐍𝐆 (𝐋𝐮𝐚̣̂𝐧 đ𝐢𝐞̂̉𝐦: 𝐋𝐚̀ 𝟏 𝐧𝐠𝐮̛𝐨̛̀𝐢 𝐩𝐡𝐮̣ 𝐧𝐮̛̃ 𝐜𝐨́ 𝐲́ 𝐭𝐮̛́, 𝐛𝐢𝐞̂́𝐭 đ𝐢𝐞̂̀𝐮)

𝐓𝐫𝐞̂𝐧 Đ𝐮̛𝐨̛̀𝐧𝐠 𝐕𝐞̂̀ 𝐍𝐡𝐚̀ 𝐓𝐫𝐚̀𝐧𝐠 (𝐂𝐚̉𝐧𝐡 Đ𝐮̛𝐚 𝐑𝐮̛𝐨̛́𝐜 𝐃𝐚̂𝐮)

Thị vừa hiện lên với hình ảnh có phần trơ trẽn, chỏng lỏn, vô duyên, thiếu ý tứ bỗng như biến thành một người khác khi theo Tràng về nhà, theo Tràng đi một đoạn đường “rước dâu” bất đắc dĩ. Trên đoạn đường về nhà, “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn.” Người phụ nữ vô ý vô tứ, chanh chua, đanh đá mà Tràng gặp ở hai lần trước như biến đâu mất, Thị bây giờ sao lại trở nên e thẹn, có thiên tính nữ như thế? Phải chăng, theo từng bước chân “về nhà chồng” ấy, trong lòng Thị đang ngập tràn những bão giông? Một người phụ nữ vừa tuổi đôi mươi, mà chỉ qua vài lời bông đùa đã theo người ta về làm vợ, về làm dâu dù chẳng biết “chồng” mình, “nhà chồng” của mình như thế nào, ra sao. Có lẽ từ trong sâu thẳm, Thị vẫn là một người phụ nữ, cũng có những khát khao về hạnh phúc, cũng ôm những hi vọng về việc lấy chồng như bao người phụ nữ khác. Lấy chồng trong hoàn cảnh như vậy, theo anh cu Tràng về nhà chỉ bằng bốn bát bánh đúc, trong lòng Thị cũng ngập tràn những tủi cực cho phận mình, chẳng dạm hỏi, không sính lễ, cũng chẳng kiệu hoa đưa rước, chỉ độc “hai vợ chồng” lặng bước trên con đường dài quanh co mà Thị chẳng biết điểm dừng sẽ ở đâu. Trên con đường dài đằng đẵng ấy, bên cạnh bao ngổn ngang giông bão đang nổi lên trong lòng, Thị còn phải đối mặt với lời chọc ghẹo của đám trẻ con của đám ngụ cư, phải chịu những ánh mắt tò mò soi xét, những lời bàn ra tán vào của người lớn. Rối càng thêm rối, Thị “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”, Thị xấu hổ, cuống quít đến mức bước nhầm cả đường. Từ những thay đổi trong hành động của Thị, người đọc dường như cảm nhận được những thay đổi từ trong sâu thẳm tâm tính của Thị, rõ ràng việc lấy chồng đã tạo ra những thay đổi ấy. Phải chăng, những cảm xúc e thẹn rất nữ tính mà Thị để lộ trên đường về nhà Tràng ấy mới chính là con người thật của Thị, con người bị cái đói, cái nghèo lu mờ đi, con người mà Thị buộc phải giấu đi để sinh tồn. Và từ những thay đổi đến từ Thị, người đọc cảm nhận được một câu chuyện tình yêu vừa méo mó, vừa chắp vá lại có phần hời hợt và vội vã, nhưng cũng thật cảm động biết bao.

𝐁𝐮̛𝐨̛́𝐜 𝐜𝐡𝐚̂𝐧 𝐯𝐚̀𝐨 𝐧𝐡𝐚̀ 𝐓𝐫𝐚̀𝐧𝐠, 𝐫𝐚 𝐦𝐚̆́𝐭 𝐦𝐞̣ 𝐜𝐡𝐨̂̀𝐧𝐠:

Con đường nào rồi cũng sẽ có điểm dừng, con đường quanh co về nhà Tràng cuối cùng cũng kết thúc ở “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, và có lẽ nhà anh cu Tràng có phần khác xa với tưởng tượng của Thị, lòng Thị lúc này, dường như nổi thêm ngàn đợt giông bão, sóng gió không ngừng. Bước vào nhà Tràng, “Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài.” Thị “bần thần”, “buồn tủi”, Thị nhận ra anh chàng hào phóng mà Thị nghĩ có thể neo đậu nửa đời sau cũng túng quẫn, nghèo khó chẳng kém gì Thị, “cái cọc” mà Thị ngỡ có thể bám vào khi chết đuối hoá ra chỉ là “cọc mục”. Nỗi đau lại chồng lên nỗi đau, nỗi khổ đến nối tiếp nỗi khổ, phải chăng, cái đói cái nghèo được định sẵn sẽ mãi bám theo Thị, trở thành nỗi ám ảnh với Thị. Và Thị, có lẽ cũng như bao người nông dân khác thời kì bấy giờ, đều bị vây hãm trõng những đói khổ ngỡ như chẳng thể thoát ra được. Ở đây, phải nói ngòi bút Kim Lân đã rất đôi tinh tế và xuất sắc khi miêu tả nỗi xót xa, đau đớn, tủi cực của người nông dân xưa.

Và dường như, người đọc bị ám ảnh bởi hành động “cố nén tiếng thở dài” của Thị. “Tiếng thở dài” mà Thị cố gắng giấu đi ấy, ẩn chứa bao đau xót, thất vọng, tủi hờn, hoang mang đang nổi lên như giông bão trong lòng Thị. Và cuối cùng, Thị đã chọn “nén” chúng lại, giấu hết đi để có một gia đình, để được yêu thương. Thiên tính nữ, khát vọng được yêu thương của Thị đã trở về một cách rất thuần tuý, tự nhiên như vậy.

𝐁𝐮𝐨̂̉𝐢 𝐬𝐚́𝐧𝐠 𝐡𝐨̂𝐦 𝐬𝐚𝐮 đ𝐞̂𝐦 𝐭𝐚̂𝐧 𝐡𝐨̂𝐧

Dường như, Kim Lân đã khiến người đọc quên mất một Thị đanh đá, chua ngoa, chao chát, chỏng lỏn mà thay vào đó là một người vợ hiền, một nàng dâu thảo. Thị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang. Ở đây Kim Lân đã vô cùng tinh tế khi tập trung miêu tả hình ảnh người “vợ nhặt” quét sân “tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất.”. Đó vốn là những việc làm rất đỗi bình thường, nhưng có lẽ đối với Thị, lại vô cùng mới mẻ và ý nghĩa. Tiếng chổi quét tựa như tiếng chuông báo hiệu rằng Thị sẽ có một cuộc sống đúng nghĩa, sẽ có một gia đình êm ấm để mà vun vén, chăm lo, Thị sẽ có một nơi để dựa vào. Có bàn tay săn sóc của Thị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Không quá khi nói rằng sự sống đã trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Và phải chăng, chính một mái ấm gia đình, một giấc ngủ bình yên đã đem Thị sống đúng với con người thật của mình, trở thành một người phụ nữ hiền thục, biết chăm lo và vun vén gia đình.

𝐓𝐑𝐎𝐍𝐆 𝐁𝐔̛̃𝐀 𝐂𝐎̛𝐌 𝐍𝐆𝐀̀𝐘 Đ𝐎́𝐈 (𝐋𝐔𝐀̣̂𝐍 Đ𝐈𝐄̂̉𝐌: 𝐋𝐀̀ 𝐌𝐎̣̂𝐓 𝐍𝐆𝐔̛𝐎̛̀𝐈 𝐏𝐇𝐔̣ 𝐍𝐔̛̃ 𝐇𝐈𝐄̂̀𝐍 𝐇𝐀̣̂𝐔, Đ𝐔́𝐍𝐆 𝐌𝐔̛̣𝐂, 𝐁𝐈𝐄̂́𝐓 𝐋𝐎 𝐓𝐎𝐀𝐍)

Bữa ăn đầu sau đêm tân hôn, Thị được mẹ chồng đãi món chè khoán – nghe thì thật sang nhưng thực chất, đó chỉ là một bát cháo cám, vừa đắng, vừa chát. Khi vừa đón lấy bát “chè khoán” đặc biệt ấy, “hai con mắt Thị tối lại”, nhưng “sau đó vẫn điềm nhiên đưa vào miệng”. Có thể nói, đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế và khéo léo, nghệ thuật viết văn bậc thầy của Kim Lân. Chi tiết đã cho thấy sự tinh tế, khéo léo và đúng mực của Thị trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu. Thị hiểu và thấm thía hoàn cảnh của “nhà chồng” nhưng không hề bộc lộ ra, Thị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ già vừa cưới được vợ cho con trai, dù đó chỉ là cô vợ “nhặt”. Đồng thời, chi tiết ấy còn thể hiện ý chí dám sống và quyết sống của Thị giữa thời buổi loạn lạc đói kém. Chính trong tận cùng của đói nghèo, đã giúp cho niềm tin và ý chí con người toả sáng.Có lẽ, bát cháo cám vừa đắng vừa chát, khó ăn khó nốt ấy, đối với một người phụ nữ bỗng dưng tìm được một mái ấm giữa thời tao loạn, cũng trở thành chè khoán.

Và chính Thị, cũng chính là người đã đưa một anh cu Tràng vô lo vô nghĩ, có phần ngốc nghếch ngờ nghệch biết đến ánh sáng của của Cách mạng bằnhg những lời kể rất vu vơ về “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang” người ta phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Dường như, Thị cũng đang dần hoàn thành trách nhiệm của một người vợ, không chỉ biết chăm lo cuộc sống thường ngày, vun vén hạnh phúc gia đình mà còn biết hướng chồng đến những điều tốt đẹp, thay đổi tâm hồn và nhận thức theo hướng tích cực.

Đ𝐚́𝐧𝐡 𝐠𝐢𝐚́, 𝐥𝐢𝐞̂𝐧 𝐡𝐞̣̂ 𝐦𝐨̛̉ 𝐫𝐨̣̂𝐧𝐠
Từ Thị, người đọc có thể cảm nhận được, một người phụ nữ dù mang hình hài khốn khổ, tội nghiệp, với vỏ bọc tâm hồn của một kẻ đanh đá, chua ngoa, chao chát, mất hết sĩ diện và không có tự trọng, thì thẳm sâu bên trong Thị ẩn chứa sự nhạy cảm, tinh tế, một trái tim luôn khát khao yêu và được yêu dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, mạnh mẽ. Có thể nói, hình ảnh Thị cũng chính là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” viết về một câu chuyện tình yêu méo mó và bi hài, nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, để lại những niềm khắc khoải khôn nguôi về những mảnh đời, những kiếp người trôi nổi, bấp bênh như cỏ dại. Trước khi gặp Tràng, Thị không hề được sống, Thị chỉ đang tồn tại lay lắt qua ngày thôi. Và Tràng cũng thế. Hai mảnh đời bất hạnh vô tình gặp nhau, trao nhau hơi ấm, sưởi ấm và cứu rỗi nhau. Chính từ lúc ấy, họ mới tìm thấy sự sống, và được sống một cách thực sự, được sống một cuộc đời đúng nghĩa, chứ không phải chỉ là tồn tại qua ngày như ngọn nến trước gió. Và đồng thời, người đọc cũng cảm nhận được thông điệp, dù có khó khăn, đau khổ và bế tắc như nào, chỉ cần con người ta có ý chí, có niềm tin và khát vọng, thì sẽ sớm tìm được hạnh phúc thôi. Và tôi tin, anh cu Tràng, Thị cũng như bà cụ Tứ, dưới ánh sáng cách mạng của Đảng, họ sớm sẽ được hạnh phúc thôi.

𝐋𝐢𝐞̂𝐧 𝐡𝐞̣̂ 𝐭𝐢𝐧𝐡 𝐭𝐡𝐚̂̀𝐧 𝐧𝐡𝐚̂𝐧 đ𝐚̣𝐨 𝐜𝐮̉𝐚 𝐭𝐚́𝐜 𝐠𝐢𝐚̉
Đại văn hào người Nga Sê-khốp từng bộc bạch “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ.”. Có thể nói, dù viết về đề tài nào, hướng ngòi bút về ai thì người nghệ sĩ, luôn gặp nhau ở tinh thần nhân đạo, ở những tình cảm hết sức chân thành, thuần khiết mà họ gửi vào trong tác phẩm. Cũng như những Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,… ở văn Kim Lân luôn ánh lên vẻ đẹp của một trái tim nhân hậu với lòng yêu đời, thương người khắc khoải khôn nguôi. Nhưng khác với các tác phẩm thời kì trước, khi mà người dân nghèo luôn bị dồn đến đường cùng, khác với Chí Phèo phải tìm đến cái chết, gia đình anh Pha ra đi vì bệnh tả, chị Dậu ngửa mặt lên trời mà khóc than,…Cuộc đời đối với họ chỉ toàn là đau khổ, là đen tối, đi mãi, đi mãi chẳng thể tìm thấy ánh sáng của bình minh. Thì đến với “Vợ nhặt”, Kim Lân đã giúp những người nông dân nghèo ấy tìm thấy ánh sáng của tình yêu giữa buổi tao loạn, vẫn luôn hướng về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp và đem đến cho họ những hi vọng vào tương lai. Như Kim Lân đã từng thổ lộ, ông viết về nạn đói nhưng ngòi bút lại hướng về ánh sáng của sự sống. Điều đó thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.

𝐊𝐞̂́𝐭 𝐛𝐚̀𝐢
Về tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân viết “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói, người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.”. Tấm lòng nhân đạo, trái tim giàu tình thươnhg yêu mà Kim Lân gửi vào trong những sáng tác của mình sẽ khiến chúng trở thành bất hủ, sống mãi với thời gian, trở thành tác phẩm của muôn đời, muôn thời.


Tags:

About author
not provided
View all posts